Bước tới nội dung

Alex Oxlade-Chamberlain

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Alex Oxlade-Chamberlain
Oxlade-Chamberlain chơi cho Beşiktaş năm 2023
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Alexander Mark David Oxlade-Chamberlain[1]
Ngày sinh 15 tháng 8, 1993 (31 tuổi)[1]
Nơi sinh Portsmouth, Anh
Chiều cao 1,76 m (5 ft 9 in)[2]
Vị trí Tiền vệ trung tâm / Tiền vệ cánh
Thông tin đội
Đội hiện nay
Beşiktaş
Số áo 15
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
2000–2010 Southampton
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2010–2011 Southampton 36 (9)
2011–2017 Arsenal 132 (9)
2017–2023 Liverpool 91 (8)
2023– Beşiktaş 0 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2010 U-18 Anh 1 (0)
2011 U-19 Anh 3 (0)
2011–2012 U-21 Anh 8 (4)
2012– Anh 35 (7)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 10 tháng 11 năm 2019
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 17 tháng 11 năm 2019

Alexander Mark David Oxlade-Chamberlain (/ˌɒksld ˈmbərlɪn/; sinh ngày 15 tháng 8 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Besiktas tại Giải Bóng đá Vô địch Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ . Anh có thể thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh hoặc tiền vệ trung tâm.

Sau màn trình diễn nổi bật với Southampton ở mùa 2010-2011, Chamberlain gia nhập Arsenal vào tháng 8 năm 2011. Ghi 2 bàn trong 3 trận đầu tiên cho CLB mới, Oxlade-Chamberlain trở thành cầu thủ người Anh trẻ nhất ghi bàn trong lịch sử UEFA Champions League. Anh cũng chiếm một vị trí đá chính thường xuyên trong đội U-21 Anh. Anh rời Arsenal để đầu quân cho kình địch của đội là Liverpool vào tháng 8 năm 2017.

Oxlade-Chamberlain có trận ra mắt cho đội tuyển Anh vào ngày 26 tháng 5 năm 2012 gặp Na Uy trong một trận đấu giao hữu. Sau đó, anh bất ngờ được triệu tập trong đội hình Tam sư tại giải vô địch bóng đá châu Âu 2012, trở thành cầu thủ trẻ thứ hai từng đại diện cho tuyển Anh thi đấu tại sân chơi cấp châu lục sau Wayne Rooney.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Sinh ra tại Portsmouth, Hampshire,[1] Oxlade-Chamberlain theo học tại trường trung học độc lập St John ở Southsea, Portsmouth.[3] Từ nhỏ anh đã là một cổ động viên của câu lạc bộ Arsenal.[4]

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Southampton

[sửa | sửa mã nguồn]

Chamberlain gia nhập học viện Southampton năm lên bảy tuổi.[5] Vào ngày 2 tháng 3 năm 2010, anh thi đấu trận đầu tiên cho Southampton lúc 16 tuổi 199 ngày,trong chiến thắng 5 -0 trước Huddersfield Town[6] và là cầu thủ trẻ thứ hai trong lịch sử thi đấu chuyên nghiệp cho Southampton sau Theo Walcott.[7] Vào ngày 8 tháng 5 năm 2010, Chamberlain được vào sân ở phút 82 thay cho Jason Puncheon trong trận đấu cuối cùng của mùa giải gặp Southend United.[8] Vào đầu mùa 2010-11, Oxlade-Chamberlain có trận đầu tiên thi đấu với A.F.C. Bournemouth tại vòng một của Cúp Liên đoàn Anh. Trong trận này anh ghi bàn thắng đầu tiên của mình và bàn thắng thứ hai cho Southampton ấn định thắng lợi 2-0.[9]

Vào ngày 20 tháng 8 năm 2010, hai ngày sau sinh nhật lần thứ 17, Oxlade-Chamberlain đã ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên có thời hạn trong vòng 3 năm.[10] Trận ra mắt của anh ở giải đấu là trận thua 2–0 tại sân nhà trước Rochdale vào ngày 4 tháng 9 năm 2010.[11] Bàn thắng đầu tiên của anh tại giải đấu là trong trận thắng 2–1 trước Oldham Athletic ngày 23 tháng 10 năm 2010.[12] Anh ghi thêm hai bàn thắng nữa và có một pha kiến tạo trong chiến thắng 4-0 trước Dagenham & Redbridge vào ngày 2 tháng 11 năm 2010, anh được bình chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu lần đầu tiên.[13]

Oxlade-Chamberlain kết thúc mùa giải với 10 bàn thắng và có tên trong Đội hình tiêu biểu của năm của giải hạng Nhất mùa bóng 2010-2011.[14] Anh trở thành mục tiêu chuyển nhượng của nhiều đội bóng vào tháng Sáu bố của anh, ông Mark Chamberlain, tuyên bố sẵn sàng cho con trai mình gia nhập Arsenal "càng sớm càng tốt" để "tiếp tục cho sự phát triển của anh".[14]

Oxlade-Chamberlain (áo đỏ) chơi cho Arsenal năm 2012

Ngày 8 tháng 8 năm 2011 Oxlade-Chamberlain ký hợp đồng với CLB Arsenal.[15] Mặc dù CLB không tiết lộ phí chuyển nhượng nhưng theo các nguồn tin báo chí cho biết phí chuyển nhượng vào khoảng 12 triệu bảng ban đầu và có thể lên đến 15 triệu bảng dựa vào đóng góp của anh.[16][17]

Anh có trận ra mắt cho CLB vào ngày 28 tháng 8 năm 2011, trong thất bại 8–2 trước Manchester United, vào sân ở phút 62 để thay cho Francis Coquelin,[18] qua đó trở thành cầu thủ thứ 150 chơi cho Arsenal tại giải Ngoại hạng.[19] Ngày 20 tháng 9 năm 2011, Oxlade-Chamberlain có bàn thắng đầu tiên cho Arsenal ở phút thứ 58 trong trận đấu với Shrewsbury TownLeague Cup với một cú sút từ khoảng cách 25 mét, giúp Pháo thủ thắng chung cuộc 3-1.[20]

Ngày 28 tháng 9 năm 2011, Oxlade-Chamberlain ghi bàn thắng mở tỷ số trong trận đấu đầu tiên của anh ở Champions League trước Olympiacos ở phút thứ 8 sau khi băng vào nhận bóng từ đường chuyền dài của Alex Song, vượt qua vài hậu vệ trước khi kết thúc vào góc lưới. Với việc ghi được bàn thắng này, anh trở thành cầu thủ người Anh trẻ nhất ghi bàn ở Champions League, vượt qua kỷ lục của người đồng đội Theo Walcott.[21]

Vào cuối mùa bóng đầu tiên tại giải Ngoại hạng Anh, Oxlade-Chamberlain được đề cử giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của PFA; anh là cầu thủ trẻ nhất có trong danh sách rút gọn và cuối cùng thua Kyle Walker của Tottenham Hotspur.[22]

Mùa 2012-13

[sửa | sửa mã nguồn]
Oxlade-Chamberlain khởi động cho Arsenal năm 2012.

Oxlade-Chamberlain ghi bàn đầu tiên trong mùa 2012-13 từ khoảng cách 25 mét trong trận đại thắng 6-1 trước Coventry City tại Cúp Liên đoàn Anh.[23] Ngày 19 tháng 12 năm 2012, báo chí đưa tin Oxlade-Chamberlain, bên cạnh một số đồng đội như Aaron Ramsey, Kieran Gibbs, Jack WilshereCarl Jenkinson đã ký một bản hợp đồng gia hạn mới với Arsenal.[24] Oxlade-Chamberlain ghi bàn thắng duy nhất trong mùa 2012-13 của giải Ngoại hạng trong thắng lợi sân nhà 7-3 trước Newcastle United.[25]

Mùa 2013-14

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong ngày khai màn mùa 2013-14, Oxlade-Chamberlain kiến tạo cho bàn thắng của Olivier Giroud trong thất bại 3-1 trên sân nhà trước Aston Villa,[26] tuy nhiên sau đó anh đã bị chấn thương và tiết lộ sẽ phải nghỉ từ sáu tuần đến ba tháng, bỏ lỡ vòng loại World Cup của tuyển Anh trước Ba LanMontenegro. Dù không chơi trận nào cho Pháo thủ kể từ khi chấn thương, Oxlade-Chamberlain vẫn được đề cử giải Cậu bé vàng 2013 để ghi nhận màn trình diễn của anh hồi đầu năm cho tuyển Anh và Arsenal.[27] Ngày 2 tháng 2, Oxlade-Chamberlain ghi hai bàn thắng đầu tiên trong mùa trong thắng lợi 2-0 của Arsenal trước Crystal Palace.[28] Oxlade-Chamberlain đã bỏ lỡ vài tuần cuối mùa, bao gồm cả trận chung kết Cúp FA 2014 sau khi dính chấn thương háng.[29]

Mùa 2014-15

[sửa | sửa mã nguồn]
Oxlade-Chamberlain khởi động cho Arsenal năm 2014

Oxlade-Chamberlain khởi đầu mùa bóng bằng danh hiệu Siêu cúp Anh 2014 sau khi Arsenal đánh bại Manchester City 3-0 tại Wembley.[30] Ngày 27 tháng 9, anh lập công trong trận derby Bắc Luân Đôn giúp Pháo thủ cầm hòa Tottenham 1-1.[31] Ngày 4 tháng 11, anh lập công giúp Arsenal dẫn R.S.C. Anderlecht 3-0 tại UEFA Champions League, mặc dù trận đấu kết thúc với tỉ số 3-3.[32] Anh cũng ghi bàn trong trận gặp Monaco ở vòng 1/16 vào tháng hai.[33] Hai trận sau, anh dính chấn thương trong trận thắng 2-1 trước Manchester United tại cúp FA và bị thay ra ngay sau hiệp một.[34] Có thông tin xác nhận anh sẽ phải ngồi ngoài ba đến bốn tuần vì chấn thương gân kheo.[35] Ngày 30 tháng 5 năm 2015, Oxlade-Chamberlain vào sân thay người trong trận chung kết Cúp FA 2015 và kiến tạo cho Olivier Giroud ghi bàn, Pháo thủ giành chiến thắng chung cuộc 4-0 tại Wembley để lên ngôi vô địch.[36]

Mùa 2015-16

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 2 tháng 8 năm 2015, Oxlade-Chamberlain ghi bàn duy nhất trong chiến thắng 1-0 trước Chelsea trong trận tranh Siêu cúp Anh.[37] Bàn thắng đầu tiên của anh tại giải quốc nội trong mùa đến trong trận gặp AFC Bournemouth, bàn thắng đầu tiên của anh ghi cho Pháo thủ trong một trận đấu làm khách.[38]

Ngày 23 tháng 2 năm 2016, anh gặp chấn thương đầu gối nghiêm trọng trong trận thua sân nhà 2-0 trước Barcelona tại Champions League,[39] dự kiến khiến anh rời xa sân cỏ tới tám tuần.[40] Một chấn thương khác trong tháng năm khi đang tập luyện cũng khiến anh nghỉ thi đấu đến hết mùa, bao gồm cả chiến dịch giải vô địch bóng đá châu Âu 2016.[41]

Mùa 2016-17

[sửa | sửa mã nguồn]

Oxlade-Chamberlain ngồi trên băng ghế dự bị trong trận thua khai mạc mùa giải của Arsenal trước Liverpool, tuy nhiên Oxlade-Chamberlain đã vào sân thay Alex Iwobi bị chấn thương và ghi bàn thắng thứ hai danh dự cho Pháo thủ, giúp trận đấu kết thúc với tỉ số 3-4.[42] Oxlade-Chamberlain cũng góp một đường kiến tạo cho bàn cân bằng tỉ số của Olivier Giroud ở những phút cuối tại Old Trafford, giúp Arsenal cầm hòa Manchester United 1-1.[43] Ngày 23 tháng 4, Oxlade-Chamberlain đã nhận danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất trận bán kết cúp FA gặp Manchester City, khi góp một kiến tạo cho bàn cân bằng tỉ số của Nacho Monreal; đây cũng là trận đấu thứ hai của anh ở vị trí đá cánh trái.[44] Anh cũng kiến tạo cả hai bàn trong chiến thắng sân nhà 2-0 trước Manchester United vào ngày 7 tháng 5.[45]

Ngày 31 tháng 8 năm 2017, Oxlade-Chamberlain rời Arsenal để kí hợp đồng với kình địch của đội là Liverpool[46] Anh ghi bàn đầu tiên cho đội bóng vào ngày 17 tháng 10 khi vào sân từ ghế dự bị, trong trận thắng đậm 7-0 trước Maribor tại Champions League, trận thắng đậm nhất trên sân khách trong lịch sử giải đấu, và trận thắng đậm nhất của một đội bóng Anh.[47]. Ngày 5 tháng 4 năm 2018 Chamberlain ghi bàn cho Liverpool trong trận tứ kết lượt đi Champion League gặp Manchester City, góp phần giúp Liverpool đánh bại đối thủ với tỉ số 3-0, tổng tỉ số 5-1.

Sự nghiệp quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyển Anh

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 16 tháng 5 năm 2012, Oxlade-Chamberlain được triệu tập vào đội hình 23 người của đội tuyển Anh thi đấu tại giải vô địch bóng đá châu Âu 2012, tổ chức tại Ba Lan và Ukraine.[48] Anh có trận ra mắt tuyển Anh vào ngày 26 tháng 5 năm 2012 trong trận thắng 1-0 trước Na Uy trong một trận đấu khởi động, vào sân thay Ashley Young ở hiệp hai.[49] Anh có trận đầu tiên cho Tam sư vào ngày 2 tháng 6 khi chơi 66 phút trước khi bị thay thế bởi Theo Walcott trong chiến thắng 1-0 trước Bỉ, một trận khởi động khác, và là trận cuối cùng trước khi bước vào giải đấu.[50]

Vòng loại World Cup 2014

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 12 tháng 10 năm 2012, Oxlade-Chamberlain ghi bàn quốc tế đầu tiên trong trận thắng 5-0 trước San Marino.[51] Anh tiếp tục lập công trong một trận gặp lại San Marino vào ngày 22 tháng 3 năm 2013, giúp Anh thắng 8-0.[52] Ngày 2 tháng 6 năm 2013, anh ghi bàn vào lưới Brazil trong trận khai mạc sân vận động Maracanã vừa nâng cấp, trận đấu kết thúc 2-2. Anh vào sân thay người hiệp hai và tung cú vô lê để cân bằng tỉ số 1-1.[53][54]

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Southampton

Arsenal

Liverpool

Beşiktaş

Cá nhân

Thống kê sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 10 tháng 11 năm 2019.
Câu lạc bộ Mùa giải Giải quốc nội FA Cup League Cup Châu Âu Khác Tổng cộng
Giải đấu Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Southampton 2009–10[62] League One 2 0 0 0 0 0 0 0 2 0
2010–11[63] League One 34 9 4 0 2 1 1[a] 0 41 10
Tổng cộng 36 9 4 0 2 1 1 0 43 10
Arsenal 2011–12[64] Premier League 16 2 3 0 3 1 4[b] 1 26 4
2012–13[65] Premier League 25 1 2 0 2 1 4[b] 0 33 2
2013–14[66] Premier League 14 2 4 1 0 0 2[b] 0 20 3
2014–15[67] Premier League 23 1 3 0 1 0 9[b] 2 1[c] 0 37 3
2015–16[68] Premier League 22 1 3 0 2 0 5[b] 0 1[c] 1 33 2
2016–17[69] Premier League 29 2 6 0 3 3 7[b] 1 45 6
2017–18[70] Premier League 3 0 1[c] 0 4 0
Tổng cộng 132 9 21 1 11 5 31 4 3 1 198 20
Liverpool 2017–18[70] Premier League 32 3 2 0 1 0 7[b] 2 42 5
2018–19[71] Premier League 2 0 0 0 0 0 0 0 2 0
2019–20[72] Premier League 8 0 0 0 2 1 2[b] 3 2[d] 0 14 4
Tổng cộng 42 3 2 0 3 1 9 5 2 0 58 9
Tổng cộng sự nghiệp 210 21 27 1 16 7 40 9 6 1 299 39
  1. ^ Football League Trophy
  2. ^ a b c d e f g h Số trận ra sân tại UEFA Champions League
  3. ^ a b c Số trận ra sân tại Siêu cúp Anh
  4. ^ One appearance in FA Community Shield; one appearance in UEFA Super Cup

Đội tuyển quốc gia

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 17 tháng 11 năm 2019.[73]
Số trận ra sân và bàn thắng theo đội tuyển quốc gia và năm.
Đội tuyển quốc gia Năm Trận Bàn
Anh 2012 9 1
2013 4 2
2014 7 1
2015 4 1
2016 0 0
2017 6 1
2018 2 0
2019 3 1
Tổng cộng 35 7

Bàn thắng quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 14 tháng 11 năm 2019.[74]
# Ngày Địa điểm Số trận Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu
1 12 tháng 10 năm 2012 Sân vận động Wembley, Luân Đôn, Anh 8  San Marino
5–0
5–0 Vòng loại World Cup 2014
2 22 tháng 3 năm 2013 Sân vận động San Marino, Serravalle, San Marino 10  San Marino
2–0
8–0 Vòng loại World Cup 2014
3 2 tháng 6 năm 2013 Sân vận động Maracanã, Rio de Janeiro, Brasil 12  Brasil
1–1
2–2 Giao hữu
4 18 tháng 11 năm 2014 Celtic Park, Glasgow, Scotland 20  Scotland
1–0
3–1 Giao hữu
5 12 tháng 10 năm 2015 Sân vận động LFF, Vilnius, Litva 24  Litva
3–0
3–0 Vòng loại Euro 2016
6 10 tháng 6 năm 2017 Hampden Park, Glasgow, Scotland 26  Litva
1–0
2–2 Vòng loại World Cup 2018
7 14 tháng 11 năm 2019 Sân vận động Wembley, Luân Đôn, Anh 34  Montenegro
1–0
7–0 Vòng loại Euro 2020

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Hugman, Barry J. biên tập (2010). The PFA Footballers' Who's Who 2010–11. Edinburgh: Mainstream Publishing. tr. 324. ISBN 978-1-84596-601-0.
  2. ^ “Player Profile: Alex Oxlade-Chamberlain”. Premier League. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2017.
  3. ^ Edwards, Richard (ngày 3 tháng 6 năm 2012). “Euro 2012: Alex Oxlade-Chamberlain was always a star in the making”. Daily Express. London. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2012.
  4. ^ “The Ox talks to The Gooner”. Online Gooner.com. ngày 12 tháng 10 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2017.
  5. ^ “Arsenal's Alex Oxlade-Chamberlain: 'I owe Southampton massively'. Goal.com.
  6. ^ “Southampton 5 Huddersfield 0”. BBC Sport. ngày 2 tháng 3 năm 2010.
  7. ^ “Johnstones Paint trophy final preview”. The Football League. ngày 27 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2010.
  8. ^ “Southampton 3–1 Southend”. BBC Sport. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2016.
  9. ^ “Saints vs Bournemouth – Match facts”. Southampton F.C. ngày 10 tháng 8 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2010.
  10. ^ “Alex Signs”. Southampton FC. ngày 20 tháng 8 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2010.
  11. ^ “Southampton 0 - 2 Rochdale”. BBC. 4 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2017.
  12. ^ “Southampton 2–1 Oldham”. BBC Sport.
  13. ^ “Alex Chamberlain stars as Saints beat Dagenham & Redbridge”. Southern Daily Echo. ngày 2 tháng 11 năm 2010.
  14. ^ a b “Dad offers Chamberlain advice”. Sky Sports. ngày 1 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2011.
  15. ^ “Oxlade-Chamberlain seals move to Arsenal”. Arsenal FC. ngày 8 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2011.
  16. ^ Wilson, Jeremy (ngày 7 tháng 8 năm 2011). “Arsenal to complete £12 million signing of Alex Oxlade-Chamberlain from Southampton”. Daily Telegraph. UK. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2011.
  17. ^ “Gunners Land Next Great Star in Alex Oxlade-Chamberlain”. bleacherreport.com. ngày 8 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2011.
  18. ^ McNulty, Phil (ngày 29 tháng 8 năm 2011). “Man Utd 8–2 Arsenal”. BBC Sport. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2011.
  19. ^ “Behind the Numbers: Premier League players”. Arsenal FC. ngày 30 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2011.
  20. ^ “Arsenal 3 - 1 Shrewsbury”. BBC Sport. ngày 20 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2011.
  21. ^ Rostance, Tom (ngày 28 tháng 9 năm 2011). “Arsenal 2 - 1 Olympiakos”. BBC Sport. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2011.
  22. ^ “Walker wins PFA award”. Sky Sports. ngày 22 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2012.
  23. ^ “Arsenal 6–1 Coventry”. BBC Sport. ngày 26 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2012.
  24. ^ “Five young internationals sign new contracts”. Arsenal F.C. ngày 19 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2012.
  25. ^ Cross, John (ngày 30 tháng 12 năm 2012). “Ox hails fox: Walcott can expect 'sign da ting' stick after treble tames Toon”. Daily Mirror. London. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2012.
  26. ^ “Arsenal 1–3 Aston Villa”. BBC Sport. ngày 17 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2013.
  27. ^ “Arsenal trio nominated for European gong | Arseblog News – the Arsenal news site”. News.arseblog.com. ngày 28 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2014.
  28. ^ “Arsenal 2–0 Crystal Palace”. BBC Sport. ngày 2 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2014.
  29. ^ Mokbel, Sami (ngày 23 tháng 4 năm 2014). “Alex Oxlade-Chamberlain to be nursed by Arsenal as persistent groin injury causes concern ahead of World Cup”. Daily Mail. London. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2016.[nguồn không đáng tin?]
  30. ^ “Arsenal 3–0 Manchester City”. BBC Sport. ngày 10 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015.
  31. ^ “Arsenal 1–1 Tottenham”. BBC Sport. ngày 27 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015.
  32. ^ "Arsenal 3–3 RSC Anderlecht". BBC Sport. ngày 4 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015.
  33. ^ "Arsenal 1–3 Monaco". BBC Sport. ngày 25 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015.
  34. ^ "Manchester United 1–2 Arsenal". BBC Sport. ngày 9 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015.
  35. ^ "Arsenal: Alex Oxlade-Chamberlain out 'for three to four weeks'". BBC Sport. ngày 13 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015.
  36. ^ “FA Cup final – FT: Arsenal 4–0 Villa”. BBC Sport. ngày 30 tháng 5 năm 2015.
  37. ^ Cryer, Andy (ngày 2 tháng 8 năm 2015). “Arsenal 1 Chelsea 0”. BBC Sport. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2015.
  38. ^ “Bournemouth 0–2 Arsenal”. BBC Sport. ngày 7 tháng 2 năm 2016.
  39. ^ McNulty, Phil (ngày 23 tháng 2 năm 2016). “Arsenal 0 Barcelona 2”. BBC Sport. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2016.
  40. ^ “Alex Oxlade-Chamberlain: Arsenal midfielder may miss eight weeks”. BBC Sport. ngày 1 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2016.
  41. ^ “Alex Oxlade-Chamberlain: Arsenal and England midfielder to miss Euro 2016”. BBC Sport. ngày 6 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2016.
  42. ^ “Arsenal 3–4 Liverpool”. BBC Sport. ngày 14 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2017.
  43. ^ “Manchester United 1–1 Arsenal”. BBC Sport. ngày 19 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2017.
  44. ^ “Alex Oxlade-Chamberlain Dedicates Semi-Final Victory to Arsenal Supporters”. The Football Association. ngày 23 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2017.
  45. ^ Chapman, Caroline (ngày 7 tháng 5 năm 2017). “Arsenal 2 – 0 Manchester United”. BBC Sport. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2017.
  46. ^ “Alex Oxlade-Chamberlain: Liverpool sign Arsenal midfielder for £35m”. BBC Sport. ngày 31 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2017.
  47. ^ Burton, Chris (ngày 17 tháng 10 năm 2017). “Liverpool record Champions League firsts with seven goal Mauling”. Goal. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2017.
  48. ^ Gibson, Owen (ngày 16 tháng 5 năm 2012). “England Euro 2012 squad: John Terry included after Ferdinand left out”. The Guardian. London. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2012.
  49. ^ McNulty, Phil (ngày 26 tháng 5 năm 2012). “Norway 0–1 England”. BBC Sport. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2012.
  50. ^ McNulty, Phil (ngày 2 tháng 6 năm 2012). “England 1–0 Belgium”. BBC Sport. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2012.
  51. ^ McNulty, Phil (ngày 12 tháng 10 năm 2012). “England 5–0 San Marino”. BBC Sport. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2016.
  52. ^ McNulty, Phil (ngày 22 tháng 3 năm 2013). “San Marino 0–8 England”. BBC Sport. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2016.
  53. ^ McNulty, Phil (ngày 2 tháng 6 năm 2013). “Brazil 2–2 England”. BBC Sport. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2016.
  54. ^ “Alex Oxlade-Chamberlain boosted England against Brazil – Hodgson”. BBC Sport. ngày 2 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2013.
  55. ^ a b c “A. Oxlade-Chamberlain”. Soccerway. Perform Group. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2017.
  56. ^ “Premier League: 2019/20: Current table”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2020.
    “Liverpool: Squad details: 2019/20”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2020.
    “Premier League Handbook Season 2019/20” (PDF). Premier League. tr. 56. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2020.
  57. ^ McNulty, Phil (ngày 1 tháng 6 năm 2019). “Tottenham Hotspur 0–2 Liverpool”. BBC Sport. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2019.
  58. ^ Rose, Gary (ngày 14 tháng 8 năm 2019). “Liverpool 2–2 Chelsea”. BBC Sport. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2019.
  59. ^ Poole, Harry (ngày 21 tháng 12 năm 2019). “Liverpool 1–0 Flamengo”. BBC Sport. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2019.
  60. ^ “Spurs' Gareth Bale wins PFA player of the year award”. BBC Sport. ngày 17 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2014.
  61. ^ “Alex Oxlade- Chamberlain: SJA 2012 Awards”. Zimbio.
  62. ^ “Games played by Alex Oxlade-Chamberlain in 2009/2010”. Soccerbase. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2013.
  63. ^ “Games played by Alex Oxlade-Chamberlain in 2010/2011”. Soccerbase. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2013.
  64. ^ “Games played by Alex Oxlade-Chamberlain in 2011/2012”. Soccerbase. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2013.
  65. ^ “Games played by Alex Oxlade-Chamberlain in 2012/2013”. Soccerbase. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2013.
  66. ^ “Games played by Alex Oxlade-Chamberlain in 2013/2014”. Soccerbase. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2013.
  67. ^ “Games played by Alex Oxlade-Chamberlain in 2014/2015”. Soccerbase. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2015.
  68. ^ “Games played by Alex Oxlade-Chamberlain in 2015/2016”. Soccerbase. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2015.
  69. ^ “Games played by Alex Oxlade-Chamberlain in 2016/2017”. Soccerbase. Centyurcomm. Truy cập ngày 18 tháng 9 năm 2016.
  70. ^ a b “Trận thi đấu của Alex Oxlade-Chamberlain trong 2017/2018”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  71. ^ “Trận thi đấu của Alex Oxlade-Chamberlain trong 2018/2019”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2019.
  72. ^ “Trận thi đấu của Alex Oxlade-Chamberlain trong 2019/2020”. Soccerbase. Centurycomm. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  73. ^ Alex.html “Alex Oxlade-Chamberlain” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). National Football Teams. Benjamin Strack-Zimmerman. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2015.
  74. ^ "Alex Oxlade-Chamberlain" Soccerway. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.

Kiên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]