Bước tới nội dung

Chủ nghĩa quân chủ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
  Quốc gia theo chế độ quân chủ bán lập hiến
  Quốc gia thuộc Khối Thịnh vượng chung Anh (gồm các quốc gia theo chế độ quân chủ đại nghị cùng thuộc một liên minh cá nhân)
  Quốc gia tồn tại chế độ quân chủ địa phương

Chủ nghĩa quân chủ là một khái niệm chính trị cho rằng chế độ quân chủhình thức chính thể lý tưởng nhất. Những người theo chủ nghĩa quân chủ ủng hộ việc thiết lập chế độ quân chủ bất kể vị quân chủ có thể là ai, khác với những người theo chủ nghĩa bảo hoàng thì ủng hộ một cá nhân cụ thể cho tước vị quân chủ. Khái niệm có nội dung trái ngược với chủ nghĩa quân chủ là chủ nghĩa cộng hòa.[1][2][3]

Tùy thuộc vào mỗi quốc gia, người theo chủ nghĩa bảo hoàng có thể ủng hộ quyền cai trị của bất kỳ cá nhân nào sẽ ở ngôi, chẳng hạn như vị nhiếp chính đại thần, người đòi hỏi vương vị, hay một người đã bị phế truất khỏi ngai vàng.

Các nền quân chủ hiện hành

[sửa | sửa mã nguồn]

Đại đa số các nền quân chủ hiện hành theo chế độ quân chủ lập hiến. Trong chế độ này, quyền lực của vị quân chủ bị hạn chế bởi hiến pháp thành văn và bất thành văn; tuy vậy ta không nên nhầm lẫn chế độ quân chủ lập hiến với chế độ cộng hòa quý tộc, trong đó vị quân chủ không nắm thực quyền, can dự rất ít vào công việc của chính phủ và gần như không hoạt động chính trị. Một số nền quân chủ lập hiến hiện hành trên thế giới có vị quân chủ hoạt động chính trị cách tích cực hơn hẳn những vị quân chủ của các quốc gia khác. Chẳng hạn, Quốc vương Bhumibol Adulyadej của Thái Lan (trị vì 1946–2016) từng đóng vai trò quan trọng trong nghị trình chính trị của quốc gia cũng như trong nhiều cuộc đảo chính quân sự. Tương tự, Quốc vương Mohammed VI của Maroc từng nắm giữ quyền lực đáng kể nhưng không tuyệt đối.

Thân vương quốc Liechtenstein là một nền quân chủ có tính dân chủ và nhân dân nước này đã tự nguyện trao phó thêm quyền lực cho vị quân chủ của mình trong vài năm trở lại đây.

Bên cạnh các quốc gia theo chế độ quân chủ lập hiến, vẫn còn một số nhỏ các quốc gia theo chế độ quân chủ tuyệt đối. Phần lớn trong số đó là các nền quân chủ Hồi giáo của người Ả Rập và lấy việc sản xuất dầu mỏ làm ngành kinh tế chính, thí dụ Ả Rập Xê Út, Bahrain, Qatar, OmanCác Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Một số nền quân chủ tuyệt đối hùng mạnh khác có thể kể đến như Brunei DarussalamEswatini.

Quốc gia Quân chủ
Ả Rập Xê Út Quốc vương Salman
Andorra Đồng Thân vương, Tổng Giám mục Joan Enric Vives i Sicília
Đồng Thân vương Emmanuel Macron
Antigua và Barbuda Quốc vương Charles Ⅲ
Bahamas
Belize
Canada
Grenada
Jamaica
New Zealand
Papua New Guinea
Saint Kitts và Nevis
Saint Lucia
Saint Vincent và Grenadines
Solomon Islands
Tuvalu
Úc
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Bahrain Quốc vương Hamad bin Isa
Bhutan Quốc vương Jigme Khesar Namgyel Wangchuck
Bỉ Quốc vương Philippe
Brunei Darussalam Sultan Hassanal Bolkiah
Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất Sheikh Mohamed bin Zayed Al Nahyan
Campuchia Quốc vương Norodom Sihamoni
Đan Mạch Quốc vương Frederik Ⅹ
Eswatini Quốc vương Mswati Ⅲ
Jordan Quốc vương Abdullah Ⅱ
Kuwait Tiểu vương Mishal Al-Ahmad
Lesotho Quốc vương Letsie
Liechtenstein Thân vương Hans-Adam
Luxembourg Đại công tước Henri
Malaysia Quốc vương Ibrahim
Maroc Quốc vương Mohammed Ⅵ
Monaco Vương công Albert
Na Uy Quốc vương Harald Ⅴ
Nhật Bản Thiên hoàng Naruhito
Oman Sultan Haitham bin Tariq
Qatar Tiểu vương Tamim bin Hamad Al Thani
Tây Ban Nha Quốc vương Felipe Ⅵ
Thái Lan Quốc vương Maha Vajiralongkorn
Thụy Điển Quốc vương Carl ⅩⅥ Gustaf
Tonga Quốc vương Tupou Ⅵ
Thành Vatican Giáo hoàng Franciscus
Vương quốc Hà Lan Quốc vương Willem-Alexander

Triết học chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]

Chế độ quân chủ tuyệt đối đứng ở vị thế đối lập với chủ nghĩa vô trị; kể từ thời kỳ Khai Sáng, chế độ này còn đối lập với chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sảnchủ nghĩa xã hội.

Ông Otto von Habsburg từng lên tiếng ủng hộ một hình thức của chế độ quân chủ lập hiến trong đó quyền tư pháp tối cao được đặt ở vị trí cao nhất, sử dụng định chế thế tập, và khi trục trặc trong tư cách của người kế vị xảy ra thì tòa án đảm bảo công tác hòa giải.

Phi đảng phái

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà khoa học chính trị người Anh Vernon Bogdanor làm chứng về tính đúng đắn của chế độ quân chủ khi cho rằng trong một nền quân chủ, vị nguyên thủ quốc gia là một người phi đảng phái, độc lập với người đứng đầu chính phủ, không đại diện cho chủ trương một đảng phái cụ thể nào nhưng đại diện cho toàn thể nhân dân. Ông Bogdanor cũng nhận thấy rằng nền quân chủ có thể hỗ trợ cách tích cực trong vai trò hiệp nhất toàn thể nhân dân của một quốc gia đa dân tộc và dẫn chứng rằng: "Ở nước Bỉ, thỉnh thoảng tôi nghe nói rằng nhà vua là người Bỉ duy nhất tại nước này, trong khi những người khác thì hoặc là người Vlaming, hoặc là người Wallon." Ông cũng nhận thấy rằng vị quân chủ của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland có thể được coi là nguyên thủ của mỗi một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp (Anh, Bắc Ireland, Scotlandxứ Wales) mà không phải của riêng một quốc gia cụ thể nào.

Lợi ích riêng

[sửa | sửa mã nguồn]

Triết gia người Anh Thomas Hobbes cho rằng "lợi ích riêng của nền quân chủ là một với lợi ích quần chúng nhân dân. Tất cả tài sản, quyền bính và sự hài hước của một vị quân chủ chỉ có thể có được nhờ của cải, sức lực và danh tiếng của nhân dân. Một vị nguyên thủ quốc gia do nhân dân bầu lên thường có động cơ gia tăng tài sản của mình để sử dụng sau khi mãn nhiệm, trong khi đó một vị quân chủ không có lý do gì để tham ô vì như thế vị quân chủ ấy tự chà đạp lên lợi ích của mình."[4]

Cố vấn khôn ngoan

[sửa | sửa mã nguồn]

Triết gia Thomas Hobbes cho rằng "vị quân chủ có thể được nghe lời khuyên khôn ngoan trong bí mật, điều mà một tập thể không có được. Những người cố vấn cho tập thể thường giỏi làm giàu cho bản thân thay vì học rộng hiểu nhiều; thường làm công tác cố vấn ngang qua những bài diễn thuyết dài, khiến mọi người muốn bắt tay vào làm việc gì đó nhưng lại không có khả năng chỉ huy mọi người trong công cuộc chung: họ khiến con người con người cảm động không bằng sự khai sáng mà bằng ngọn lửa nhiệt tâm. Những kẻ như vậy là điểm yếu của tập thể".[5]

Chủ nghĩa nhiệm kỳ dài

[sửa | sửa mã nguồn]

Triết gia Thomas Hobbes cho rằng các quyết định của vị quân chủ không phải chịu bất kỳ một mâu thuẫn nào ngoại trừ bản tính con người; trong các tập thể, mâu thuẫn xảy ra từ trong nội bộ. Vì trong tập thể ấy, chỉ cần một vài người có quan điểm ngược với số đông vắng mặt một hôm hay là siêng năng có mặt một hôm thì "trong ngày hôm nay, mọi chuyện đã quyết ngày hôm qua trở về con số không."[6]

Giảm thiểu nội chiến

[sửa | sửa mã nguồn]

Triết gia Thomas Hobbes cho rằng một vị quân chủ không thể bất đồng với chính mình vì lợi ích cá nhân hay vì đố kỵ, tuy nhiên trong một tập thể thì hoàn toàn có thể xảy ra bất đồng, thậm chí có thể gây ra nội chiến.[7]

Được thành lập vào năm 1943, Liên minh Quân chủ chủ nghĩa Quốc tế luôn tìm cách thúc đẩy việc thiết lập chế độ quân chủ và nhấn mạnh rằng chế độ này củng cố quyền tự do của quân chúng nhân dân, kể cả khi nền quân chủ theo chế độ dân chủ hay độc tài bởi vì theo định nghĩa, vị quân chủ không phải chịu ơn các chính trị gia.

Nhà văn người Mỹ gốc Anh Matthew Feeney theo chủ nghĩa tự do cá nhân lập luận rằng các nền quân chủ lập hiến tại châu Âu "đã thành công phần nào trong việc né tránh các hình thức chính trị cực đoan"—nhất là chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa cộng sản và chế độ độc tài quân sự—"một phần là do các nền quân chủ kiểm soát được ý chí của các chính trị gia theo chủ nghĩa dân túy" nhờ bản chất của mình là đại biểu cho những phong tục và truyền thống lâu đời.[8] Ông Feeney nhận thấy rằng:

Những nền quân chủ ở châu Âu, ví dụ như Đan Mạch, Bỉ, Thụy Điển, Hà Lan, Na Uy, và Anh, đã cai trị các quốc gia thuộc hàng ổn định nhất, thịnh vượng nhất và tự do nhất trên thế giới.[8]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Bohn, H. G. (1849). The Standard Library Cyclopedia of Political, Constitutional, Statistical and Forensic Knowledge (bằng tiếng Anh). tr. 640. A republic, according to the modern usage of the word, signifies a political community which is not under monarchical government ... in which one person does not possess the entire sovereign power. (Tạm dịch: Một nền cộng hòa, theo cách hiểu của não trạng hiện đại, biểu thị một chính thể không thuộc quyền cai trị của một vị quân chủ ... trong thể chế này, không một ai nắm toàn bộ quyền hành tối cao.)
  2. ^ “Definition of Republic”. Merriam-Webster Dictionary (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2017. a government having a chief of state who is not a monarch ... a government in which supreme power resides in a body of citizens entitled to vote and is exercised by elected officers and representatives responsible to them and governing according to law (Tạm dịch: một chính quyền có nguyên thủ quốc gia không là một vị quân chủ ... một chính quyền trong đó quyền lực tối cao được trao phó trong tay một nhóm công dân có quyền bầu cử; quyền lực được thực thi bởi các quan chức tuyển chọn thông qua bầu cử và các đại biểu chịu trách nhiệm trước họ và điều hành theo pháp luật)
  3. ^ “The definition of republic”. Dictionary.com. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2017. a state in which the supreme power rests in the body of citizens entitled to vote and is exercised by representatives chosen directly or indirectly by them. ... a state in which the head of government is not a monarch or other hereditary head of state.
  4. ^ Hobbes, Thomas (1651). Leviathan, 19.4. tr. 124–125.
  5. ^ Hobbes, Thomas (1651). Leviathan, 19.5. tr. 125.
  6. ^ Hobbes, Thomas (1651). Leviathan, 19.6. tr. 125.
  7. ^ Hobbes, Thomas (1651). Leviathan, 19.7. tr. 125.
  8. ^ a b Feeney, Matthew (25 tháng 7 năm 2013). “The Benefits of Monarchy”. Reason magazine.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]